định nghĩa phóng đại đã được biết đến từ lâu. Khoảng năm 1267, triết gia người Anh Roger Bacon đã viết trong Perspectiva, “[chúng ta] có thể đánh số những hạt bụi và cát nhỏ nhất dựa trên góc độ to mà chúng mình có thể nhìn thấy chúng,” và vào năm 1538, bác sĩ người Ý Girolamo Fracastoro đã viết trong Homocentrica, “Nếu ai đấy nhìn qua 2 chiếc kính đeo mắt, chiếc này chồng lên cái kia, người đấy sẽ nhìn thấy mọi thứ lớn hơn nhiều.”



các bức vẽ của Robert Hooke

những bức vẽ của Robert Hooke về cấu trúc tế bào của nút chai và một nhánh cây mẫn cảm từ Micrographia (1665).(thêm)



bức vẽ một con muỗi cái của Robert Hooke

Bức vẽ một con muỗi cái của Robert Hooke, từ Micrographia (1665).(thêm)

3 nhà phân phối kính mắt người Hà Lan—Hans Jansen, con trai ông là Zacharias Jansen, và Hans Lippershey—đã nhận được công lao vì đã phát minh ra kính hiển vi phức hợp vào khoảng năm 1590. Hình vẽ trước tiên về kính hiển vi được vẽ vào khoảng năm 1631 ở Hà Lan. Nó rõ ràng là một cái kính hiển vi phức hợp, có thị kính và vật kính. Loại nhạc cụ này, được làm bằng gỗ và bìa cứng, thường được trang hoàng bằng da cá đánh bóng, ngày càng trở nên phổ thông vào giữa thế kỷ 17 và được nhà triết học khi không người Anh Robert Hooke sử dụng để trình diễn thường xuyên cho Hiệp hội tôn thất mới. . những cuộc biểu tình này bắt đầu vào năm 1663, và 2 năm sau, Hooke xuất bản một tập folio có tựa đề Micrographia, giới thiệu một loạt các góc nhìn vi mô về những vật thể quen thuộc (bọ chét, chấy và cây tầm ma trong số đó). Trong cuốn sách này, ông đã đặt ra thuật ngữ tế bào.



kính hiển vi của Antonie van Leeuwenhoek

Kính hiển vi điện tử do Antonie van Leeuwenhoek sản xuất.

Ẩn trong những trang không đánh số trong lời nói đầu của Micrographia là phần mô tả cách cung ứng một thấu kính công suất cao độc nhất vô nhị thành 1 chiếc kính hiển vi có thể sử dụng được, và chính nhờ sử dụng mẫu mã này mà công chức người Hà Lan Antonie van Leeuwenhoek đã bắt đầu những quan sát tiền phong của mình về các vi sinh vật nước ngọt trong các năm 1670. Ông đã tự tay phân phối những chiếc kính hiển vi có kích thước bằng con tem bưu chính và cái kính hiển vi tốt nhất trong số đấy có thể phân giải những chi tiết khoảng 0,7 μm. các mẫu vật đẹp đẽ của ông được phát hiện trong tình trạng tuyệt vời tại Hiệp hội hoàng thất hơn ba thế kỷ sau đã chứng tỏ ông là một khoa học viên vĩ đại. Sử dụng kính hiển vi đơn thuần của mình, Leeuwenhoek đã đưa ra phương pháp vi sinh vật học một cách hiệu quả vào năm 1674 giúp giá kính hiển vi một thấu kính giảm vẫn được ưa chuộng cho đến các năm 1850. Năm 1827, chúng được nhà thực vật học người Scotland Robert Brown sử dụng để chứng minh sự có mặt khắp nơi của nhân tế bào, 1 thuật ngữ mà ông đặt ra vào năm 1831.



kính hiển vi phức hợp thế kỷ 17

1 kính hiển vi phức hợp thế kỷ 17.

Kính hiển vi đơn giản sử dụng thấu kính đơn có thể tạo ra hình ảnh đẹp; tuy nhiên, chúng cũng có thể tạo ra những màu fake do quang sai màu, trong đấy các bước sóng ánh sáng khác nhau ko đến cùng một tiêu điểm. Quang sai còn tệ hơn ở những kính hiển vi phức hợp vào thời đó, vì những thấu kính đã cường điệu quang sai ít nhất bằng mức chúng cường điệu hình ảnh. mặc dầu để mua kính hiển vi phức hợp là các đồ vật đẹp đẽ đem đến địa vị cho chủ nhân nhưng chúng lại tạo ra những hình ảnh kém chất lượng. Năm 1733, nhà quang học nghiệp dư người Anh Chester Moor Hall đã tìm ra bằng cách thử và sai rằng sự kết hợp giữa một thấu kính thủy tinh hình vương miện lồi và 1 thấu kính thủy tinh lửa lõm có thể giúp điều chỉnh quang sai màu trong kính thiên văn, và vào năm 1774, Benjamin Martin ở London đã phân phối ra một kính thiên văn. bộ thấu kính hiệu chỉnh màu tiên phong dành cho kính hiển vi.

Sự xuất hiện của các loại kính quang học mới đã khuyến khích sự tăng trưởng liên tục của kính hiển vi trong thế kỷ 19, và những cải tiến đáng kể đã được thực hành trong việc tìm hiểu quang học hình học của sự hình thành ảnh. khái niệm vật kính hiển vi tiêu sắc đẹp (ko biến dạng màu) rốt cục đã được giới thiệu vào năm 1791 bởi nhà quang học người Hà Lan Francois Beeldsnijder, và nhà khoa học người Anh Joseph Jackson Lister vào năm 1830 đã xuất bản một công trình biểu đạt cách tiếp cận lý thuyết để bề ngoài hoàn chỉnh những vật kính hiển vi. Vật lý của cấu tạo thấu kính đã được nhà vật lý người Đức Ernst Abbe nghiên cứu. Năm 1868, ông phát minh ra hệ thống thấu kính tiêu nhan sắc, hệ thống này thậm chí còn có khả năng hiệu chỉnh màu sắc đẹp tốt hơn thấu kính tiêu nhan sắc, và vào năm 1873, ông địa tía 1 phân tích toàn diện về lý thuyết thấu kính. Kính hiển vi ánh sáng được sản xuất vào cuối thế kỷ 19 đã đạt đến dừng hiệu quả của kính hiển vi quang học. những thiết bị sau này, chả hạn như kính hiển vi tương phản pha, kính hiển vi giao thoa và kính hiển vi đồng tiêu, đã giải quyết các vấn đề cụ thể phát sinh trong quá trình nghiên cứu những mẫu vật như tế bào sống.


Bài viết khác cùng Box :